Các phương pháp kiểm tra u vú - Cách phòng ngừa và điều trị u vú

22/07/2017
Đối với phụ nữ chưa mãn kinh thời điểm khám vú tốt nhất từ ngày thứ 8 đến ngày thứ 10 của chu kỳ kinh. Với phụ nữ mãn kinh hoặc đã cắt tử cung nên chọn vào một thời điểm cố định để khám.
Thực hiện các bước của quá trình khám ở 2 tư thế: Đứng thẳng, tay chống hông hoặc nằm với tay vòng qua đầu.

1. Quan sát: Quan sát sự cân đối của vú, biến dạng, biến đổi của da, thay đổi màu sắc

2. Sờ nắn hai bên vú: Khám vú theo đúng phương pháp tất cả các khu và dưới núm vú (khám trên và dưới từ trái qua phải hoặc khám theo xoắn ốc bắt đầu từ núm vú đi ra ngoài). Kiểm tra xem có dịch chảy từ núm vú, những thay đổi ở da.
Ghi nhận các kết quả khám theo từng vùng và theo chiều kim đồng hồ, kích thước, tính đồng đều (dạng nang, rắn, mềm-đàn hồi), di động, có ranh giới ngoại tiếp rõ ràng hay (ngược lại, có thể một phần của nhu mô vú), căng đau. So sánh giữa vùng nghi ngờ với vùng đối diện vú bên kia. Kiểm tra các hạch vùng nách, vùng trên xương đòn. 


(Nguồn ảnh: internet)

3. Chụp vú: Nên tiến hành chụp kiểm tra hàng năm vào độ tuổi 50-60, giúp phát hiện được khối u trong vú, trong một số trường hợp có thể giúp cung cấp thêm thông tin định dạng khối u. Chụp vú không thể giúp phân biệt chính xác những khối u lành hay ác tính mà cần phải làm thêm những kiểm tra khác (sinh thiết)

4. Siêu âm: Hỗ trợ cho chụp vú trong trường hợp cần phân biệt giữa u nang và khối đặc.
Có ích lợi trong việc hướng dẫn chọc hút sinh thiết đối với các khối u nang hoặc định vị các điểm vôi  hoá hoặc các khối rắn trong quá trình sinh thiết trung tâm khối u.

5. Chọc hút bằng kim: Dùng kim nhỏ chọc hút dịch hoặc tế bào u. Dịch hút có máu cần được gửi đi làm tế bào học
Khi nang vú được xác định qua chụp vú nhưng không thể sờ nắn được, có thể tiến hành chọc hút với sự hướng dẫn của siêu âm. Đối với những khối u sờ nắn được, việc chọc hút có thể không cần tới sự hỗ trợ của siêu âm.

6. Sinh thiết trung tâm khối u: Thủ thuật này lấy được trung tâm khối u để tiến hành xét nghiệm tế bào .Thủ thuật này ít tốn kém và ít nguy cơ hơn so với sinh thiết và phẫu thuật mở, không để lại sẹo.

7. Sinh thiết phẫu thuật mở: Cắt bỏ khối u và cắt rộng thêm 1cm bờ tổ chức lành (lumpectomy) (trừ trường hợp ngoại lệ đối với những khối u lành tính như u tuyến xơ, thường được cắt bỏ với một diện mở rộng tối thiểu so với ranh giới khối u)

8. Các phương pháp kết hợp: Việc kết hợp giữa khám thực thể, chọc hút bằng kim nhỏ hoặc sinh thiết trung tâm khối u và chụp vú sẽ tăng độ chính xác của chẩn đoán bệnh.
Khi cả 3 xét nghiệm trên cho cùng một kết quả, có thể khẳng định tính chính xác và chắc chắn của chẩn đoán tới 99%.

Nếu nghi ngờ mắc bệnh u vú, bệnh nhân cần đến cơ sở y tế để được Bác sĩ chỉ định các phương pháp thăm khám phù hợp.

  • PHÒNG NGỪA VÀ ĐIỀU TRỊ U VÚ LÀNH TÍNH

Bác sĩ sẽ hướng dẫn cách điều trị dựa trên kết quả siêu âm, tuổi tác, kích thước, tình trạng của u vú và sức khỏe của người bệnh. Có 2 cách thường được áp dụng như sau:

+ Dùng thuốc:
- Thuốc điều chỉnh nội tiết để đưa tỉ lệ estrogen, progesteron, prolactin về bình thường ở mức thích hợp, cân bằng nội tiết tố và điều hòa kinh nguyệt.Tuy nhiên, phương pháp này chỉ có thể giúp hạn chế cho u vú không tăng sinh về kích thước và số lượng chứ không  không điều trị triệt để.
-  Bài thuốc Đông y: Các bài thuốc từ thảo dược tự nhiên như Trinh nữ hoàng cung, có thể ức chế sự hình thành và phát triển khối u. Việc dùng thuốc tác động trực tiếp vào khối u thì mới có thể trị dứt điểm được căn nguyên bệnh và làm tiêu giảm khối u.

+ Phẫu thuật
Phẫu thuật loại bỏ u ở vú thường áp dụng đối với những khối u lớn hoặc khối u đang gây những biến chứng cho người bệnh. Phẫu thuật có thể làm mất u vú ngay lập tức nhưng không triệt để và có khả năng tái phát sau đó.

Phụ nữ ở bất kỳ độ tuổi nào cũng có khả năng mắc u vú, do đó cần thường xuyên kiểm tra tình hình sức khỏe để phát hiện và điều trị kịp thời. Nên có biện pháp phòng ngừa những nguy cơ mắc bệnh xảy ra với mình. Ngoài ra, khi mắc bệnh, người bệnh không nên chủ quan mà cần phải theo dõi vì có khả năng u vú sẽ phát triển nhanh ảnh hưởng đến chất lượng sống, nguy hiểm hơn là chuyển thành ung thư.

-st-